Minh Hoa Chương buông tay xuống, trong mắt hắn vẫn còn hằn tơ máu, nhưng đã khôi phục lại được vẻ bình tĩnh, trấn định trong ánh mắt, hắn nói: “Giữa phủ Thành Quốc Công và Hoàng Tế tửu không có quan hệ phức tạp nào, ta đã tìm kiếm dựa trên chân dung của muội, quả thật là đã tìm ra được mấy người.”
“Trong đó có một người là học trò trong Quốc Tử Giám, một năm trước hắn ta ở cùng với Trình đại lang, tên là Từ Ký, là con út của Từ thị trung Môn Hạ tỉnh. Khi bé cơ thể của hắn ta rất yếu ớt, từng dưỡng bệnh trong sơn trang nằm ở ngoại ô; hai năm trước hắn ta chuyển về Trường An, vào học ở Quốc Tử Giám. Hắn ta từng ở chung phòng với cháu trai trưởng của Thành Quốc Công, cũng chính là huynh trưởng của Trình Tư Nguyệt, Trình Tư Nguyệt thường chạy đến Quốc Tử Giám, cho nên Từ Ký và Trình Tư Nguyệt cũng đã gặp nhau vài lần. Nghe nói là Từ Ký vô cùng thích Trình Tư Nguyệt, thậm chí là còn nghĩ tới việc đến phủ Thành Quốc Công cầu hôn, nhưng Trình gia lại không muốn, Trình đại lang bèn từ chối khéo, cũng nhờ Giám thừa điều chỉnh học xá.”
Minh Hoa Thường nghe xong thì hỏi: “Huynh đang muốn nói là, có khả năng Từ Ký cầu hôn không thành nên ghi hận trong lòng?”
“Không loại trừ khả năng này.” Minh Hoa Chương nói: “Ta đã hỏi thử người hầu của Từ gia, bọn họ nói rằng Từ Ký thích sắc đẹp, nha hoàn bên cạnh hắn ta đều là nữ tử khoảng chừng mười bốn tuổi, dáng người ai cũng nhỏ nhắn xinh xắn, khuôn mặt mỹ lệ, quá mười tám tuổi thì sẽ bị hắn ta đuổi đi. Từ gia có một sơn trang ở ngoại ô, nếu đi xe ngựa đến chùa Phổ Độ thì chỉ mất khoảng một chén trà mà thôi, và vào bốn năm trước, hắn ta đã dưỡng bệnh trong sơn trang này. Hôm Trình Tư Nguyệt tử vong, hắn ta và Trình đại lang học cùng lớp, khả năng rất cao là hắn ta đã chú ý thấy Trình Tư Nguyệt đứng bên ngoài hành lang. Và điều trùng hợp nhất đó chính là, cả buổi chiều hôm đó, Từ Ký đã vắng mặt, suốt cả chiều vẫn không quay lại lớp học.”
Minh Hoa Thường vội hỏi: “Buổi chiều hôm đó hắn ta đã đi đâu thế?”
“Phường Bình Khang.” Minh Hoa Chương nói: “Hắn ta đi đến lầu Mãn Xuân, tú bà nói là hắn ta đã đến vào khoảng giờ Thân, gọi vũ cơ Hồng Diệp quen thuộc nhất theo như thường lệ, đến giờ Dậu mới rời đi. Trong khoảng thời gian đó, hắn ta luôn ở trong phòng Hồng Diệp, không có ai thấy hắn ta cả.”
Minh Hoa Thường nhíu mày suy tư, nàng lại hỏi: “Trong một khoảng thời gian dài như thế, hắn ta đã làm gì ở trong đó nhỉ?”
“Hồng Diệp nói là bọn họ ngâm thơ với nhau, sau đó Từ Ký đi ngủ, Hồng Diệp sợ người ngoài đánh thức hắn ta nên vẫn luôn đóng kín cửa lại, không để người ta đi vào quấy rầy hắn ta. Nhưng trong lúc đó nàng ta luôn trông giữ ngay trước giường hắn ta ngủ, nàng ta dám bảo đảm là Từ Ký không hề đi đến nơi nào khác cả.”
Minh Hoa Chương nói xong thì lạnh lùng vô tình nói thêm rằng: “Nhưng tú bà đã nói rằng Từ Ký có ý định chuộc thân cho Hồng Diệp, Hồng Diệp có chuyện cầu cạnh hắn ta, không thể tin hết vào những gì mà nàng ta nói được. Ta đã xem qua phòng khách mà hôm đó Từ Ký ở, cửa sổ nằm rất gần mặt đất, nam tử có thể nhảy xuống một cách dễ dàng, phía sau đó còn có một con đường nhỏ nối thẳng đến cửa sau.”
Minh Hoa Thường hỏi lại: “Huynh nghi ngờ hắn ta lấy cớ đến thanh lâu mua vui, nhưng thật ra là lén chuồn ra khỏi phường Bình Khang, đến chợ Đông để sát hại Trình Tư Nguyệt à?”
“Nếu Hồng Diệp nói dối, thì với khoảng cách giữa chợ Đông và phường Bình Khang, Từ Ký hoàn toàn có thể tới kịp.”
“Kịp giết người nhưng chưa chắc là đã kịp lấy xương, mổ xẻ tử thi.” Minh Hoa Thường đặt ra nghi vấn: “Nếu hắn ta giết Trình Tư Nguyệt ở chợ Đông, vậy thì làm sao mà hắn ta ra tay được khi mà trên đường có nhiều người như vậy? Dù hắn ta có lừa Trình Tư Nguyệt để nàng ấy đi đến một nơi vắng vẻ đi chăng nữa, thì nếu giết người và lấy xương ngón tay, hắn ta phải dọn dẹp hiện trường gây án, lại còn phải ném thi thể ở phía Nam phường Thông Tế nữa, liệu rằng chỉ làm trong một canh giờ có kịp hay không?”
“Đây cũng là nguyên nhân ta nói hắn ta khớp với chân dung nhưng thời gian gây án lại không đủ.” Minh Hoa Chương nói: “Còn có một người khác cũng hoàn toàn phù hợp với chân dung của muội, hắn ta là thầy của đám người Từ Ký và Trình đại lang, là tiến sĩ Quốc tử học, Lư Độ.”
Cái tên này nghe rất quen, Minh Hoa Thường nhớ ra ngay: “Là nam tử thổi sáo mà chúng ta đã gặp được hôm ở chùa Phổ Độ à?”
“Là hắn ta.” Minh Hoa Chương nói: “Hắn ta xuất thân từ Phạm Dương Lư thị, mẫu thân của hắn ta chính là nữ nhi của Huỳnh Dương Trịnh thị. Tế tửu Quốc Tử Giám thích người xuất thân thế gia, hắn ta mang trên mình dòng máu của hai vọng tộc, cho nên ông ta mới tiến cử hắn ta vào giảng dạy trong Quốc Tử Giám, bây giờ đã là năm thứ tư hắn ta giảng dạy ở đó rồi. Cha mẹ của hắn ta đều đã mất, hắn ta cũng chưa thành thân, bây giờ đã hai mươi hai tuổi, có rất nhiều bà mối muốn làm mai nhưng hắn ta vẫn luôn đắm chìm trong lễ Phật, một mực chối từ.”
Minh Hoa Thường nghe thấy tuổi tác và tình trạng hôn nhân của hắn ta thì lòng nàng khẽ run lên, vội hỏi: “Lúc án mạng xảy ra, hắn ta đang làm gì?”
“Bốn năm trước, hắn ta sống nhờ ở trong chùa Thanh Sơn, nhưng nghe nói là quan hệ giữa hắn ta và phụ thân không tốt. Vào cái năm mà chủ tớ Hoàng Thái Vi xảy ra chuyện, hắn ta đã ở trong chùa Thanh Sơn được hơn hai năm. Hôm Trình Tư Nguyệt bị hại, buổi sáng hắn ta giảng bài ở Quốc Tử Giám, buổi chiều thì lại ở trong chùa Thanh Thiền nghe giảng kinh pháp hội, có một số lượng lớn người có thể làm chứng cho hắn ta.”
“Quan hệ giữa hắn ta và phụ thân không tốt à?” Minh Hoa Thường vội hỏi tiếp: “Còn có thông tin gì khác liên quan đến hắn ta nữa hay không?”
“Ta cũng từng nghi ngờ hắn ta, nhưng quả thật hắn ta không hề có mặt ở hiện trường.” Minh Hoa Chương giải thích: “Buổi sáng hắn ta ở Quốc Tử Giám dạy “Công Dương truyện”, sau khi tan học vào giờ Tỵ, Lư Độ không dùng bữa mà điều khiển xe rời khỏi Quốc Tử Giám, đến chùa Thanh Thiền nghe kinh. Cao tăng giảng kinh chính là trụ trì của chùa Phổ Độ. Sau khi Lư Độ vào điện thì hắn ta bắt đầu chào hỏi các sư trụ trì và sa di, sau đó lại vào phòng hương nhỏ để nghe kinh. Mãi đến khi pháp hội kết thúc, tức là vào cuối giờ Dậu, hắn ta mới rời đi.”
Bạn đang đọc bản chuyển ngữ thuộc về allinvn.net
“Phòng hương à?” Minh Hoa Thường nghe đến đây thì hỏi: “Lúc đó trong phòng hương có ai không?”
Minh Hoa Chương biết Minh Hoa Thường đang nghi ngờ điều gì, hắn bèn lấy giấy bút ra vẽ bản đồ chùa Thanh Thiền cho nàng xem: “Đây là Đại Hùng Bảo Điện của chùa Thanh Thiền, trụ trì ngồi trên bồ đoàn phía trên cùng, bên dưới là vị trí ngồi của đông đảo tín đồ; nhưng cũng có vài người không muốn lộ diện, hoặc là ngại đại đường nhỏ không thoải mái, nên bọn họ sẽ quyên góp thêm chút tiền hương hỏa để vào phòng hương ngồi một mình. Tuy nói là phòng hương, nhưng thật ra là chỉ là dùng tấm ván gỗ dựng thành một gian nhỏ ở hai bên Đông – Tây của đại điện, sau khi treo màn tơ lên thì nơi đó sẽ riêng tư hơn một chút so với việc ngồi ở trong đại điện. Nhưng tấm rèm lại không hề dày, ở bên ngoài vẫn có thể nhìn thấy được tình hình bên trong. Trụ trì giảng kinh trong khoảng ba canh giờ, Lư Độ luôn ngồi trong phòng của hắn ta, bên ngoài có rất nhiều người trông thấy, có thể làm chứng là hắn ta không hề rời đi.”
Minh Hoa Thường nhíu mày, nàng suy nghĩ cả một lúc lâu rồi mới hỏi: “Vậy thì sau khi pháp hội kết thúc, hắn ta đã đi đâu?”
“Về phủ.” Minh Hoa Chương nói: “Về việc này thì đã sa di của chùa Thanh Thiền, người giữ cổng Lư phủ làm chứng, thời gian hoàn toàn trùng khớp với nhau.”
Trong số hai người phù hợp với chân dung, Từ Ký thì đã có người làm chứng cộng với việc thời gian không đủ, còn Lư Độ thì lại có lộ trình vô cùng rõ ràng, xem ra là không có người nào có điều kiện gây án cả.
Tâm tình của Minh Hoa Thường trở nên trĩu nặng, nàng tự hỏi bản thân mình, liệu có phải là do nàng đã “tiên nhập vi chú”, khiến cho chân dung của hung thủ sát với hình tượng mà nàng kỳ vọng, dẫn đến việc quên mất đi các yếu tố thực tế, nàng tự hỏi xem có phải là như thế hay không.
Có lẽ, nàng nên tham khảo kinh nghiệm tìm kiếm hung thủ từ các bộ đầu nha môn trong thực tế nhiều hơn, chưa chắc lần nào cảm giác của nàng cũng chuẩn.
Minh Hoa Thường thở dài một hơi, thanh âm ấy nhỏ đến mức không thể nghe thấy được, nàng lại hỏi: “Nếu bỏ qua chân dung thì còn có kẻ nào khác khả nghi hay không?”
Minh Hoa Chương lẳng lặng nhìn nàng, hắn nắm lấy mu bàn tay nàng, bình tĩnh nói: “Có.”
Lòng Minh Hoa Thường càng thêm phần trĩu nặng.
Dù đó có là Minh Hoa Chương, người đã tin tưởng nàng mà chẳng hề do dự gì, thì cũng phải chuẩn bị con đường thứ hai cho mình, hoàn toàn không hề trông cậy vào việc tìm ra được hung thủ nhờ vào một bức chân dung được hình thành dựa trên tâm lý kẻ gây án. Tất nhiên là Minh Hoa Thường cũng hiểu cách làm của Minh Hoa Chương, đây mới là tố chất mà một người lãnh đạo trưởng thành, có trách nhiệm nên có. Chỉ là nàng thấy tiếc nuối, tiếc nuối vì sao nàng vẫn vô dụng như thế.
Giọng nói của Minh Hoa Chương vẫn vô cùng bình tĩnh và lý trí, nhưng bàn tay hắn vẫn luôn nắm tay Minh Hoa Thường, lặng lẽ bày tỏ sự ủng hộ mà hắn dành cho nàng. Hắn chưa bao giờ nghi ngờ nàng, nhưng hắn phải có trách nhiệm với vụ án, để lại đường lui vẫn luôn là nguyên tắc của riêng hắn.
Minh Hoa Chương nói: “Ta đã chia những người phụ trách vụ án giết người liên hoàn này ra thành hai nhóm, cho một nhóm xem chân dung của muội, để bọn họ tìm người phù hợp dựa theo chân dung; nhóm còn lại thì hoàn toàn không biết gì về các đặc điểm trong trang chân dung, chỉ điều tra dựa trên kinh nghiệm phá án bình thường. Hiện nay nhóm thứ hai đã tìm ra được hai người, một người là Ngũ Dịch, làm công cho Quốc Tử Giám, người còn lại là hòa thượng của chùa Phổ Độ, tên là Tịnh Tuệ.”
“Hả?” Minh Hoa Thường nhướng mày: “Hòa thượng à?”
“Không vội, nói về từng người một đã.” Minh Hoa Chương nói đâu vào đấy: “Ngũ Dịch là lao dịch của Quốc Tử Giám, bình thường chỉ làm mấy công việc tốn công tốn sức. Vào hôm Hai mươi hai tháng Mười, Trình Tư Nguyệt đón xe rời khỏi phủ vào buổi trưa, không lâu sau thì Ngũ Dịch cũng đi ra ngoài, Trình Tư Nguyệt đi đến chợ Đông, sau đó thì không rõ tung tích, Ngũ Dịch cũng ở chợ Đông trong một khoảng thời gian, đến tận khuya mới về.”
Minh Hoa Thường hỏi: “Có phải huynh đang muốn nói là, sau khi Trình Tư Nguyệt rời đi, hắn ta đã theo đuôi nàng ấy, cuối cùng là giết nàng ấy ở chợ Đông, phải không?”
“Có thể xảy ra khả năng này. Nhưng bốn năm trước hắn ta không ở Quốc Tử Giám, mà hắn ra làm việc ở một quán ăn, ban ngày không có thời gian ra khỏi thành, không mấy liên quan đến cái chết của chủ tớ Hoàng Thái Vi và Vũ Yến, khả năng hắn ta là sát thủ liên hoàn là rất nhỏ.”
Minh Hoa Thường buông một tiếng thở dài thật khẽ, lại hỏi: “Người còn lại thì sao?”
Tuy việc tra án liên tục gặp phải khó khăn, nhưng giọng điệu của Minh Hoa Chương vẫn không hề nóng vội, hắn chậm rãi nói đến kẻ tình nghi tiếp theo: “Tịnh Tuệ là người mà ta vô tình phát hiện ra được lúc sai người tra thẻ tu hành thân phận ở chùa Phổ Độ. Tịnh Tuệ không thạo bơi, mang khẩu âm của Quan Trung. Nhưng thẻ tu hành lại cho thấy hắn ta là người Tương Châu, hồi bảy tuổi từng gặp lũ lụt ở quê, và hắn ta là người duy nhất trong gia đình sống sót, sau đó được hòa thượng nhận nuôi, từ đó quy y lễ Phật, đổi tên thành Tịnh Tuệ.”
Minh Hoa Thường nghe xong thì bỗng trở nên cảnh giác: “Người Tương Châu, có thể sống sót từ lũ lụt vào năm bảy tuổi nhưng lại không có kỹ năng bơi ư?”
“Đúng vậy.” Minh Hoa Chương bình tĩnh nói: “Ta đã phái người đến chùa Phạn Âm, nơi Tịnh Tuệ quy y, để nghe ngóng về tướng mạo và cuộc đời hắn ta. Nếu như không khớp với hòa thượng Tịnh Tuệ hiện tại, vậy thì có thể chứng tỏ được rằng, Tịnh Tuệ thật đã gặp chuyện bất trắc, và thẻ tu hành của hắn ta đã bị người ta lấy trộm mất.”
Chuyện như thế này không hề hiếm gặp, cửa Phật chú trọng đến tứ đại giai không, không hỏi chuyện hồng trần. Sau khi quy y, hòa thượng, ni cô không cần phải nộp thuế cho triều đình, không cần phải tòng quân lao dịch. Và không cần biết là đã gặp được ngôi chùa nào, chỉ cần lấy thẻ chứng minh của mình ra là có thể tá túc, ăn chay miễn phí ở ngôi chùa đó.
Bạn đang đọc bản chuyển ngữ thuộc về allinvn.net
Từ Nam Bắc triều cho đến nay, quý tộc triều đình tôn sùng Phật giáo mà không dè chừng gì. Chùa chiền đã chiếm một phần đất lớn, thẻ tu hành quy y cửa Phật cũng trở thành mặt hàng bán chạy. Nếu có thẻ tu hành để chứng minh thân phận hòa thượng của mình, và ăn mặc như hòa thượng để đi lại bên ngoài, thì người đó có thể thoát khỏi sự truy bắt của sai dịch triều đình một cách “danh chính ngôn thuận”. Thậm chí là còn có thể nhận được sự tin tưởng từ các gia đình giàu có, có rất nhiều thổ phỉ cướp bóc thích làm như vậy.
“Tịnh Tuệ” mà bây giờ bọn họ đang nhìn thấy, khả năng hắn ta không phải là Tịnh Tuệ cao vô cùng.
Minh Hoa Thường nhớ đến chuyện, lúc họ ở trong chùa Phổ Độ, từng có kẻ lén lút quanh quẩn ở bên ngoài sương phòng của Hoàng Thái Vi. Minh Hoa Thường hỏi: “Người lúc trước nhìn trộm chúng ta là hắn ta à?”
“Không xác định được.” Minh Hoa Chương đáp: “Ta đã lặng lẽ nghe ngóng cách đối nhân xử thế của Tịnh Tuệ từ các tăng nhân trong chùa Phổ Độ. Họ đều nói rằng thái độ của Tịnh Tuệ không hề đứng đắn, bài tập sáng tối thì có hôm làm, có hôm không, lúc nào cũng chỉ ở một mình, xuất quỷ nhập thần, có rất nhiều người trong chùa có ý phê bình hắn ta. Nhất là khi, có người còn nói rằng, hình như là Tịnh Tuệ còn có thói trộm đồ nữa.”
Minh Hoa Thường không nhịn được mà nhướng mày lên: “Trộm đồ? Có bằng chứng không?”
“Tạm thời thì không có, không loại trừ khả năng người trong chùa Phổ Độ không thích hắn ta nên cố ý nói xấu hắn ta.” Minh Hoa Chương đưa ra phán đoán một cách đúng trọng tâm và rất công bằng: “Có một lý do khác khiến cho các tăng nhân nghi ngờ Tịnh Tuệ trộm đồ, là vì vào ngày Hai mươi hai tháng Mười, trụ trì dẫn theo các đệ tử vào thành giảng kinh, trước kia Tịnh Tuệ thích chạy vào trong thành nhất, dù có việc hay không có việc gì thì cũng kiếm cớ mua đồ để đi vào thành. Nhưng trong ngày hôm đó, thái độ của hắn ta lại vô cùng khác thường, chủ động xin ở lại chùa Phổ Độ giữ cửa, không theo các sư huynh sư đệ vào thành.”
“Trong chùa chỉ có một mình hắn ta thôi à?”
“Phải.”
Minh Hoa Thường suy nghĩ về cấu trúc của chùa Phổ Độ cả một lúc, như có gì cần phải suy ngẫm, rồi nàng nói: “Nói cách khác, ngày đó, dù hắn ta có lén lút rời khỏi chùa Phổ Độ hay không thì cũng không có ai biết cả.”
Minh Hoa Chương gật đầu, bày tỏ sự tán thành: “Ta đã mang chân dung của Tịnh Tuệ theo để hỏi thủ vệ cổng thành. Chỉ tiếc rằng, đó đã là chuyện của hơn mười ngày trước, số người ra vào thành mỗi ngày còn nhiều như thế nữa, bọn họ không thể nhớ được Tịnh Tuệ đã từng xuất hiện hay chưa.”
Minh Hoa Thường chống cằm, nàng hơi thất thần, nhìn chằm chằm vào ánh nến, lẩm bẩm: “Trùng hợp vậy, Trình Tư Nguyệt bị hại và chùa Phổ Độ vào thành giảng kinh diễn ra cùng một ngày?”
Nếu đã trùng hợp quá mức như thế thì chắc chắn đó không phải là tình cờ. Minh Hoa Chương nói: “Hiện nay hắn ta là người có hiềm nghi lớn nhất. Tịnh Tuệ đến chùa Thanh Sơn vào năm năm trước, sau đó không lâu thì xuất hiện vụ án mạng đầu tiên. Bốn năm trước, Hoàng Thái Vi và Vũ Yến bị hại ở gần chùa; còn năm nay, khi Trình Tư Nguyệt bị sát hại, đúng lúc chùa Phổ Độ vào Trường An mở pháp hội. Bên cạnh đó, thân phận, khoảng cách giàu – nghèo, tính tình của người chết lại khác nhau quá nhiều, chỉ có khi ở trước mặt Phật Tổ thì mới là như nhau. Nữ ăn mày xin ăn ở gần chùa Thanh Sơn, Hoàng Thái Vi và Vũ Yến bái Phật trong chùa, còn Trình Tư Nguyệt thì lại đi dạo trên phố; họ không thể ngây thơ đến mức dám đi theo một nam tử nào đó mà không đề phòng gì, trừ phi đối phương mặc áo cà sa, là người tu hành có lòng dạ từ bi, chỉ có thế thì mới khiến họ không đề phòng gì.”
Minh Hoa Thường suy nghĩ rồi gật đầu: “Có lý. Dù không phải là hắn ta đi chăng nữa, nhưng nếu hôm đó hắn ta nhìn lén chúng ta, chắc chắn là hắn ta cũng đã biết được chút gì đó.”
Minh Hoa Chương lại nói: “Ta đã phái người theo dõi Tịnh Tuệ, chỉ cần đợi đến khi người đi đến chùa Phạn Âm quay về, xác định được thân phận của hắn ta, thì chúng ta có thể bắt lấy hắn ta để thẩm vấn.”
Dù sao thì Tịnh Tuệ cũng là người quy y nơi cửa Phật, có khoảng một nửa số quý tộc trong thành Trường An cúng Phật, thế nên, nếu cứ bắt người mà không có bằng chứng gì, Minh Hoa Chương sẽ khó lòng mà giải thích được.
Minh Hoa Chương chỉ nói có mấy câu ngắn ngủi thôi mà đã nói rõ ra những điểm đáng nghi và những điểm trong sạch của từng kẻ tình nghi. Minh Hoa Thường nghĩ đến lượng công việc rất lớn đằng sau những lời chứng này, nàng chợt sinh lòng tôn kính với Minh Hoa Chương.
Xem ra là nàng vẫn phải đến phủ Kinh Triệu đưa đồ ăn tiếp rồi, nếu không thì, với cường độ làm việc ấy của Minh Hoa Chương, sớm muộn gì hắn cũng chết sớm mất thôi.
Minh Hoa Thường nói chuyện với Minh Hoa Chương đến tận khuya rồi mới rời đi, bây giờ không có bằng chứng, vụ án đang đi vào ngõ cụt, chỉ có thể gửi gắm hy vọng vào việc thẩm vấn Tịnh Tuệ, xem thử xem có thể mang lại bước ngoặt nào mới hay không. Nhưng mà Tương Châu cách Trường An xa xôi, bây giờ đương lúc trời đông giá rét, bọn họ phải đợi khoảng nửa tháng thì người đến chùa Phạn Âm tra hỏi mới quay về.
Nha dịch cầm chân dung Tịnh Tuệ về, người trong đó nho nhã gầy gò, mặt mũi hiền lành, khác với “Tịnh Tuệ” bây giờ quá nhiều.
Minh Hoa Chương không nói thêm bất kỳ câu nào khác nữa, lập tức dẫn người đến chùa Phổ Độ để bắt người. Nhưng khi đến nơi rồi thì mới biết, từ hai ngày trước, người ta đã không rõ tung tích Tịnh Tuệ đâu, và nghiêm trọng hơn cả là, Phật bảo của chùa Phổ Độ cũng đã bị mất rồi.
“Trong đó có một người là học trò trong Quốc Tử Giám, một năm trước hắn ta ở cùng với Trình đại lang, tên là Từ Ký, là con út của Từ thị trung Môn Hạ tỉnh. Khi bé cơ thể của hắn ta rất yếu ớt, từng dưỡng bệnh trong sơn trang nằm ở ngoại ô; hai năm trước hắn ta chuyển về Trường An, vào học ở Quốc Tử Giám. Hắn ta từng ở chung phòng với cháu trai trưởng của Thành Quốc Công, cũng chính là huynh trưởng của Trình Tư Nguyệt, Trình Tư Nguyệt thường chạy đến Quốc Tử Giám, cho nên Từ Ký và Trình Tư Nguyệt cũng đã gặp nhau vài lần. Nghe nói là Từ Ký vô cùng thích Trình Tư Nguyệt, thậm chí là còn nghĩ tới việc đến phủ Thành Quốc Công cầu hôn, nhưng Trình gia lại không muốn, Trình đại lang bèn từ chối khéo, cũng nhờ Giám thừa điều chỉnh học xá.”
Minh Hoa Thường nghe xong thì hỏi: “Huynh đang muốn nói là, có khả năng Từ Ký cầu hôn không thành nên ghi hận trong lòng?”
“Không loại trừ khả năng này.” Minh Hoa Chương nói: “Ta đã hỏi thử người hầu của Từ gia, bọn họ nói rằng Từ Ký thích sắc đẹp, nha hoàn bên cạnh hắn ta đều là nữ tử khoảng chừng mười bốn tuổi, dáng người ai cũng nhỏ nhắn xinh xắn, khuôn mặt mỹ lệ, quá mười tám tuổi thì sẽ bị hắn ta đuổi đi. Từ gia có một sơn trang ở ngoại ô, nếu đi xe ngựa đến chùa Phổ Độ thì chỉ mất khoảng một chén trà mà thôi, và vào bốn năm trước, hắn ta đã dưỡng bệnh trong sơn trang này. Hôm Trình Tư Nguyệt tử vong, hắn ta và Trình đại lang học cùng lớp, khả năng rất cao là hắn ta đã chú ý thấy Trình Tư Nguyệt đứng bên ngoài hành lang. Và điều trùng hợp nhất đó chính là, cả buổi chiều hôm đó, Từ Ký đã vắng mặt, suốt cả chiều vẫn không quay lại lớp học.”
Minh Hoa Thường vội hỏi: “Buổi chiều hôm đó hắn ta đã đi đâu thế?”
“Phường Bình Khang.” Minh Hoa Chương nói: “Hắn ta đi đến lầu Mãn Xuân, tú bà nói là hắn ta đã đến vào khoảng giờ Thân, gọi vũ cơ Hồng Diệp quen thuộc nhất theo như thường lệ, đến giờ Dậu mới rời đi. Trong khoảng thời gian đó, hắn ta luôn ở trong phòng Hồng Diệp, không có ai thấy hắn ta cả.”
Minh Hoa Thường nhíu mày suy tư, nàng lại hỏi: “Trong một khoảng thời gian dài như thế, hắn ta đã làm gì ở trong đó nhỉ?”
“Hồng Diệp nói là bọn họ ngâm thơ với nhau, sau đó Từ Ký đi ngủ, Hồng Diệp sợ người ngoài đánh thức hắn ta nên vẫn luôn đóng kín cửa lại, không để người ta đi vào quấy rầy hắn ta. Nhưng trong lúc đó nàng ta luôn trông giữ ngay trước giường hắn ta ngủ, nàng ta dám bảo đảm là Từ Ký không hề đi đến nơi nào khác cả.”
Minh Hoa Chương nói xong thì lạnh lùng vô tình nói thêm rằng: “Nhưng tú bà đã nói rằng Từ Ký có ý định chuộc thân cho Hồng Diệp, Hồng Diệp có chuyện cầu cạnh hắn ta, không thể tin hết vào những gì mà nàng ta nói được. Ta đã xem qua phòng khách mà hôm đó Từ Ký ở, cửa sổ nằm rất gần mặt đất, nam tử có thể nhảy xuống một cách dễ dàng, phía sau đó còn có một con đường nhỏ nối thẳng đến cửa sau.”
Minh Hoa Thường hỏi lại: “Huynh nghi ngờ hắn ta lấy cớ đến thanh lâu mua vui, nhưng thật ra là lén chuồn ra khỏi phường Bình Khang, đến chợ Đông để sát hại Trình Tư Nguyệt à?”
“Nếu Hồng Diệp nói dối, thì với khoảng cách giữa chợ Đông và phường Bình Khang, Từ Ký hoàn toàn có thể tới kịp.”
“Kịp giết người nhưng chưa chắc là đã kịp lấy xương, mổ xẻ tử thi.” Minh Hoa Thường đặt ra nghi vấn: “Nếu hắn ta giết Trình Tư Nguyệt ở chợ Đông, vậy thì làm sao mà hắn ta ra tay được khi mà trên đường có nhiều người như vậy? Dù hắn ta có lừa Trình Tư Nguyệt để nàng ấy đi đến một nơi vắng vẻ đi chăng nữa, thì nếu giết người và lấy xương ngón tay, hắn ta phải dọn dẹp hiện trường gây án, lại còn phải ném thi thể ở phía Nam phường Thông Tế nữa, liệu rằng chỉ làm trong một canh giờ có kịp hay không?”
“Đây cũng là nguyên nhân ta nói hắn ta khớp với chân dung nhưng thời gian gây án lại không đủ.” Minh Hoa Chương nói: “Còn có một người khác cũng hoàn toàn phù hợp với chân dung của muội, hắn ta là thầy của đám người Từ Ký và Trình đại lang, là tiến sĩ Quốc tử học, Lư Độ.”
Cái tên này nghe rất quen, Minh Hoa Thường nhớ ra ngay: “Là nam tử thổi sáo mà chúng ta đã gặp được hôm ở chùa Phổ Độ à?”
“Là hắn ta.” Minh Hoa Chương nói: “Hắn ta xuất thân từ Phạm Dương Lư thị, mẫu thân của hắn ta chính là nữ nhi của Huỳnh Dương Trịnh thị. Tế tửu Quốc Tử Giám thích người xuất thân thế gia, hắn ta mang trên mình dòng máu của hai vọng tộc, cho nên ông ta mới tiến cử hắn ta vào giảng dạy trong Quốc Tử Giám, bây giờ đã là năm thứ tư hắn ta giảng dạy ở đó rồi. Cha mẹ của hắn ta đều đã mất, hắn ta cũng chưa thành thân, bây giờ đã hai mươi hai tuổi, có rất nhiều bà mối muốn làm mai nhưng hắn ta vẫn luôn đắm chìm trong lễ Phật, một mực chối từ.”
Minh Hoa Thường nghe thấy tuổi tác và tình trạng hôn nhân của hắn ta thì lòng nàng khẽ run lên, vội hỏi: “Lúc án mạng xảy ra, hắn ta đang làm gì?”
“Bốn năm trước, hắn ta sống nhờ ở trong chùa Thanh Sơn, nhưng nghe nói là quan hệ giữa hắn ta và phụ thân không tốt. Vào cái năm mà chủ tớ Hoàng Thái Vi xảy ra chuyện, hắn ta đã ở trong chùa Thanh Sơn được hơn hai năm. Hôm Trình Tư Nguyệt bị hại, buổi sáng hắn ta giảng bài ở Quốc Tử Giám, buổi chiều thì lại ở trong chùa Thanh Thiền nghe giảng kinh pháp hội, có một số lượng lớn người có thể làm chứng cho hắn ta.”
“Quan hệ giữa hắn ta và phụ thân không tốt à?” Minh Hoa Thường vội hỏi tiếp: “Còn có thông tin gì khác liên quan đến hắn ta nữa hay không?”
“Ta cũng từng nghi ngờ hắn ta, nhưng quả thật hắn ta không hề có mặt ở hiện trường.” Minh Hoa Chương giải thích: “Buổi sáng hắn ta ở Quốc Tử Giám dạy “Công Dương truyện”, sau khi tan học vào giờ Tỵ, Lư Độ không dùng bữa mà điều khiển xe rời khỏi Quốc Tử Giám, đến chùa Thanh Thiền nghe kinh. Cao tăng giảng kinh chính là trụ trì của chùa Phổ Độ. Sau khi Lư Độ vào điện thì hắn ta bắt đầu chào hỏi các sư trụ trì và sa di, sau đó lại vào phòng hương nhỏ để nghe kinh. Mãi đến khi pháp hội kết thúc, tức là vào cuối giờ Dậu, hắn ta mới rời đi.”
Bạn đang đọc bản chuyển ngữ thuộc về allinvn.net
“Phòng hương à?” Minh Hoa Thường nghe đến đây thì hỏi: “Lúc đó trong phòng hương có ai không?”
Minh Hoa Chương biết Minh Hoa Thường đang nghi ngờ điều gì, hắn bèn lấy giấy bút ra vẽ bản đồ chùa Thanh Thiền cho nàng xem: “Đây là Đại Hùng Bảo Điện của chùa Thanh Thiền, trụ trì ngồi trên bồ đoàn phía trên cùng, bên dưới là vị trí ngồi của đông đảo tín đồ; nhưng cũng có vài người không muốn lộ diện, hoặc là ngại đại đường nhỏ không thoải mái, nên bọn họ sẽ quyên góp thêm chút tiền hương hỏa để vào phòng hương ngồi một mình. Tuy nói là phòng hương, nhưng thật ra là chỉ là dùng tấm ván gỗ dựng thành một gian nhỏ ở hai bên Đông – Tây của đại điện, sau khi treo màn tơ lên thì nơi đó sẽ riêng tư hơn một chút so với việc ngồi ở trong đại điện. Nhưng tấm rèm lại không hề dày, ở bên ngoài vẫn có thể nhìn thấy được tình hình bên trong. Trụ trì giảng kinh trong khoảng ba canh giờ, Lư Độ luôn ngồi trong phòng của hắn ta, bên ngoài có rất nhiều người trông thấy, có thể làm chứng là hắn ta không hề rời đi.”
Minh Hoa Thường nhíu mày, nàng suy nghĩ cả một lúc lâu rồi mới hỏi: “Vậy thì sau khi pháp hội kết thúc, hắn ta đã đi đâu?”
“Về phủ.” Minh Hoa Chương nói: “Về việc này thì đã sa di của chùa Thanh Thiền, người giữ cổng Lư phủ làm chứng, thời gian hoàn toàn trùng khớp với nhau.”
Trong số hai người phù hợp với chân dung, Từ Ký thì đã có người làm chứng cộng với việc thời gian không đủ, còn Lư Độ thì lại có lộ trình vô cùng rõ ràng, xem ra là không có người nào có điều kiện gây án cả.
Tâm tình của Minh Hoa Thường trở nên trĩu nặng, nàng tự hỏi bản thân mình, liệu có phải là do nàng đã “tiên nhập vi chú”, khiến cho chân dung của hung thủ sát với hình tượng mà nàng kỳ vọng, dẫn đến việc quên mất đi các yếu tố thực tế, nàng tự hỏi xem có phải là như thế hay không.
Có lẽ, nàng nên tham khảo kinh nghiệm tìm kiếm hung thủ từ các bộ đầu nha môn trong thực tế nhiều hơn, chưa chắc lần nào cảm giác của nàng cũng chuẩn.
Minh Hoa Thường thở dài một hơi, thanh âm ấy nhỏ đến mức không thể nghe thấy được, nàng lại hỏi: “Nếu bỏ qua chân dung thì còn có kẻ nào khác khả nghi hay không?”
Minh Hoa Chương lẳng lặng nhìn nàng, hắn nắm lấy mu bàn tay nàng, bình tĩnh nói: “Có.”
Lòng Minh Hoa Thường càng thêm phần trĩu nặng.
Dù đó có là Minh Hoa Chương, người đã tin tưởng nàng mà chẳng hề do dự gì, thì cũng phải chuẩn bị con đường thứ hai cho mình, hoàn toàn không hề trông cậy vào việc tìm ra được hung thủ nhờ vào một bức chân dung được hình thành dựa trên tâm lý kẻ gây án. Tất nhiên là Minh Hoa Thường cũng hiểu cách làm của Minh Hoa Chương, đây mới là tố chất mà một người lãnh đạo trưởng thành, có trách nhiệm nên có. Chỉ là nàng thấy tiếc nuối, tiếc nuối vì sao nàng vẫn vô dụng như thế.
Giọng nói của Minh Hoa Chương vẫn vô cùng bình tĩnh và lý trí, nhưng bàn tay hắn vẫn luôn nắm tay Minh Hoa Thường, lặng lẽ bày tỏ sự ủng hộ mà hắn dành cho nàng. Hắn chưa bao giờ nghi ngờ nàng, nhưng hắn phải có trách nhiệm với vụ án, để lại đường lui vẫn luôn là nguyên tắc của riêng hắn.
Minh Hoa Chương nói: “Ta đã chia những người phụ trách vụ án giết người liên hoàn này ra thành hai nhóm, cho một nhóm xem chân dung của muội, để bọn họ tìm người phù hợp dựa theo chân dung; nhóm còn lại thì hoàn toàn không biết gì về các đặc điểm trong trang chân dung, chỉ điều tra dựa trên kinh nghiệm phá án bình thường. Hiện nay nhóm thứ hai đã tìm ra được hai người, một người là Ngũ Dịch, làm công cho Quốc Tử Giám, người còn lại là hòa thượng của chùa Phổ Độ, tên là Tịnh Tuệ.”
“Hả?” Minh Hoa Thường nhướng mày: “Hòa thượng à?”
“Không vội, nói về từng người một đã.” Minh Hoa Chương nói đâu vào đấy: “Ngũ Dịch là lao dịch của Quốc Tử Giám, bình thường chỉ làm mấy công việc tốn công tốn sức. Vào hôm Hai mươi hai tháng Mười, Trình Tư Nguyệt đón xe rời khỏi phủ vào buổi trưa, không lâu sau thì Ngũ Dịch cũng đi ra ngoài, Trình Tư Nguyệt đi đến chợ Đông, sau đó thì không rõ tung tích, Ngũ Dịch cũng ở chợ Đông trong một khoảng thời gian, đến tận khuya mới về.”
Minh Hoa Thường hỏi: “Có phải huynh đang muốn nói là, sau khi Trình Tư Nguyệt rời đi, hắn ta đã theo đuôi nàng ấy, cuối cùng là giết nàng ấy ở chợ Đông, phải không?”
“Có thể xảy ra khả năng này. Nhưng bốn năm trước hắn ta không ở Quốc Tử Giám, mà hắn ra làm việc ở một quán ăn, ban ngày không có thời gian ra khỏi thành, không mấy liên quan đến cái chết của chủ tớ Hoàng Thái Vi và Vũ Yến, khả năng hắn ta là sát thủ liên hoàn là rất nhỏ.”
Minh Hoa Thường buông một tiếng thở dài thật khẽ, lại hỏi: “Người còn lại thì sao?”
Tuy việc tra án liên tục gặp phải khó khăn, nhưng giọng điệu của Minh Hoa Chương vẫn không hề nóng vội, hắn chậm rãi nói đến kẻ tình nghi tiếp theo: “Tịnh Tuệ là người mà ta vô tình phát hiện ra được lúc sai người tra thẻ tu hành thân phận ở chùa Phổ Độ. Tịnh Tuệ không thạo bơi, mang khẩu âm của Quan Trung. Nhưng thẻ tu hành lại cho thấy hắn ta là người Tương Châu, hồi bảy tuổi từng gặp lũ lụt ở quê, và hắn ta là người duy nhất trong gia đình sống sót, sau đó được hòa thượng nhận nuôi, từ đó quy y lễ Phật, đổi tên thành Tịnh Tuệ.”
Minh Hoa Thường nghe xong thì bỗng trở nên cảnh giác: “Người Tương Châu, có thể sống sót từ lũ lụt vào năm bảy tuổi nhưng lại không có kỹ năng bơi ư?”
“Đúng vậy.” Minh Hoa Chương bình tĩnh nói: “Ta đã phái người đến chùa Phạn Âm, nơi Tịnh Tuệ quy y, để nghe ngóng về tướng mạo và cuộc đời hắn ta. Nếu như không khớp với hòa thượng Tịnh Tuệ hiện tại, vậy thì có thể chứng tỏ được rằng, Tịnh Tuệ thật đã gặp chuyện bất trắc, và thẻ tu hành của hắn ta đã bị người ta lấy trộm mất.”
Chuyện như thế này không hề hiếm gặp, cửa Phật chú trọng đến tứ đại giai không, không hỏi chuyện hồng trần. Sau khi quy y, hòa thượng, ni cô không cần phải nộp thuế cho triều đình, không cần phải tòng quân lao dịch. Và không cần biết là đã gặp được ngôi chùa nào, chỉ cần lấy thẻ chứng minh của mình ra là có thể tá túc, ăn chay miễn phí ở ngôi chùa đó.
Bạn đang đọc bản chuyển ngữ thuộc về allinvn.net
Từ Nam Bắc triều cho đến nay, quý tộc triều đình tôn sùng Phật giáo mà không dè chừng gì. Chùa chiền đã chiếm một phần đất lớn, thẻ tu hành quy y cửa Phật cũng trở thành mặt hàng bán chạy. Nếu có thẻ tu hành để chứng minh thân phận hòa thượng của mình, và ăn mặc như hòa thượng để đi lại bên ngoài, thì người đó có thể thoát khỏi sự truy bắt của sai dịch triều đình một cách “danh chính ngôn thuận”. Thậm chí là còn có thể nhận được sự tin tưởng từ các gia đình giàu có, có rất nhiều thổ phỉ cướp bóc thích làm như vậy.
“Tịnh Tuệ” mà bây giờ bọn họ đang nhìn thấy, khả năng hắn ta không phải là Tịnh Tuệ cao vô cùng.
Minh Hoa Thường nhớ đến chuyện, lúc họ ở trong chùa Phổ Độ, từng có kẻ lén lút quanh quẩn ở bên ngoài sương phòng của Hoàng Thái Vi. Minh Hoa Thường hỏi: “Người lúc trước nhìn trộm chúng ta là hắn ta à?”
“Không xác định được.” Minh Hoa Chương đáp: “Ta đã lặng lẽ nghe ngóng cách đối nhân xử thế của Tịnh Tuệ từ các tăng nhân trong chùa Phổ Độ. Họ đều nói rằng thái độ của Tịnh Tuệ không hề đứng đắn, bài tập sáng tối thì có hôm làm, có hôm không, lúc nào cũng chỉ ở một mình, xuất quỷ nhập thần, có rất nhiều người trong chùa có ý phê bình hắn ta. Nhất là khi, có người còn nói rằng, hình như là Tịnh Tuệ còn có thói trộm đồ nữa.”
Minh Hoa Thường không nhịn được mà nhướng mày lên: “Trộm đồ? Có bằng chứng không?”
“Tạm thời thì không có, không loại trừ khả năng người trong chùa Phổ Độ không thích hắn ta nên cố ý nói xấu hắn ta.” Minh Hoa Chương đưa ra phán đoán một cách đúng trọng tâm và rất công bằng: “Có một lý do khác khiến cho các tăng nhân nghi ngờ Tịnh Tuệ trộm đồ, là vì vào ngày Hai mươi hai tháng Mười, trụ trì dẫn theo các đệ tử vào thành giảng kinh, trước kia Tịnh Tuệ thích chạy vào trong thành nhất, dù có việc hay không có việc gì thì cũng kiếm cớ mua đồ để đi vào thành. Nhưng trong ngày hôm đó, thái độ của hắn ta lại vô cùng khác thường, chủ động xin ở lại chùa Phổ Độ giữ cửa, không theo các sư huynh sư đệ vào thành.”
“Trong chùa chỉ có một mình hắn ta thôi à?”
“Phải.”
Minh Hoa Thường suy nghĩ về cấu trúc của chùa Phổ Độ cả một lúc, như có gì cần phải suy ngẫm, rồi nàng nói: “Nói cách khác, ngày đó, dù hắn ta có lén lút rời khỏi chùa Phổ Độ hay không thì cũng không có ai biết cả.”
Minh Hoa Chương gật đầu, bày tỏ sự tán thành: “Ta đã mang chân dung của Tịnh Tuệ theo để hỏi thủ vệ cổng thành. Chỉ tiếc rằng, đó đã là chuyện của hơn mười ngày trước, số người ra vào thành mỗi ngày còn nhiều như thế nữa, bọn họ không thể nhớ được Tịnh Tuệ đã từng xuất hiện hay chưa.”
Minh Hoa Thường chống cằm, nàng hơi thất thần, nhìn chằm chằm vào ánh nến, lẩm bẩm: “Trùng hợp vậy, Trình Tư Nguyệt bị hại và chùa Phổ Độ vào thành giảng kinh diễn ra cùng một ngày?”
Nếu đã trùng hợp quá mức như thế thì chắc chắn đó không phải là tình cờ. Minh Hoa Chương nói: “Hiện nay hắn ta là người có hiềm nghi lớn nhất. Tịnh Tuệ đến chùa Thanh Sơn vào năm năm trước, sau đó không lâu thì xuất hiện vụ án mạng đầu tiên. Bốn năm trước, Hoàng Thái Vi và Vũ Yến bị hại ở gần chùa; còn năm nay, khi Trình Tư Nguyệt bị sát hại, đúng lúc chùa Phổ Độ vào Trường An mở pháp hội. Bên cạnh đó, thân phận, khoảng cách giàu – nghèo, tính tình của người chết lại khác nhau quá nhiều, chỉ có khi ở trước mặt Phật Tổ thì mới là như nhau. Nữ ăn mày xin ăn ở gần chùa Thanh Sơn, Hoàng Thái Vi và Vũ Yến bái Phật trong chùa, còn Trình Tư Nguyệt thì lại đi dạo trên phố; họ không thể ngây thơ đến mức dám đi theo một nam tử nào đó mà không đề phòng gì, trừ phi đối phương mặc áo cà sa, là người tu hành có lòng dạ từ bi, chỉ có thế thì mới khiến họ không đề phòng gì.”
Minh Hoa Thường suy nghĩ rồi gật đầu: “Có lý. Dù không phải là hắn ta đi chăng nữa, nhưng nếu hôm đó hắn ta nhìn lén chúng ta, chắc chắn là hắn ta cũng đã biết được chút gì đó.”
Minh Hoa Chương lại nói: “Ta đã phái người theo dõi Tịnh Tuệ, chỉ cần đợi đến khi người đi đến chùa Phạn Âm quay về, xác định được thân phận của hắn ta, thì chúng ta có thể bắt lấy hắn ta để thẩm vấn.”
Dù sao thì Tịnh Tuệ cũng là người quy y nơi cửa Phật, có khoảng một nửa số quý tộc trong thành Trường An cúng Phật, thế nên, nếu cứ bắt người mà không có bằng chứng gì, Minh Hoa Chương sẽ khó lòng mà giải thích được.
Minh Hoa Chương chỉ nói có mấy câu ngắn ngủi thôi mà đã nói rõ ra những điểm đáng nghi và những điểm trong sạch của từng kẻ tình nghi. Minh Hoa Thường nghĩ đến lượng công việc rất lớn đằng sau những lời chứng này, nàng chợt sinh lòng tôn kính với Minh Hoa Chương.
Xem ra là nàng vẫn phải đến phủ Kinh Triệu đưa đồ ăn tiếp rồi, nếu không thì, với cường độ làm việc ấy của Minh Hoa Chương, sớm muộn gì hắn cũng chết sớm mất thôi.
Minh Hoa Thường nói chuyện với Minh Hoa Chương đến tận khuya rồi mới rời đi, bây giờ không có bằng chứng, vụ án đang đi vào ngõ cụt, chỉ có thể gửi gắm hy vọng vào việc thẩm vấn Tịnh Tuệ, xem thử xem có thể mang lại bước ngoặt nào mới hay không. Nhưng mà Tương Châu cách Trường An xa xôi, bây giờ đương lúc trời đông giá rét, bọn họ phải đợi khoảng nửa tháng thì người đến chùa Phạn Âm tra hỏi mới quay về.
Nha dịch cầm chân dung Tịnh Tuệ về, người trong đó nho nhã gầy gò, mặt mũi hiền lành, khác với “Tịnh Tuệ” bây giờ quá nhiều.
Minh Hoa Chương không nói thêm bất kỳ câu nào khác nữa, lập tức dẫn người đến chùa Phổ Độ để bắt người. Nhưng khi đến nơi rồi thì mới biết, từ hai ngày trước, người ta đã không rõ tung tích Tịnh Tuệ đâu, và nghiêm trọng hơn cả là, Phật bảo của chùa Phổ Độ cũng đã bị mất rồi.