Nếu Phùng Hành Di không đến Bạch Vân tự, hắn cũng không thể nào biết lão trọc già trụ trì Vô Ly lại cực kỳ ghét bỏ hắn. Phùng Hành Di chỉ vừa đến trước cửa, Vô Ly đã cho người ra đánh đuổi mà không cần biết ý định của hắn là gì. Phùng Hành Di cố gắng vừa đánh trả vừa đến được giữa chùa, nhưng lại dừng ngay trước Đại Hùng Bảo Điện, không dám tiến thêm bước nào. Hắn gào thét phá rối khiến cho Vô Ly phải đích thân xuất hiện gặp hắn.
“Ta không phải đến sinh sự. Ta chỉ muốn có được cỏ Thủy Túc để cứu mạng. Thỉnh phương trượng cho toại nguyện.”
“Bất luận vì lý do gì, một yêu vật như ngươi sao lại dám xâm phạm vào chốn trang nghiêm này? Mau rời khỏi, nếu còn hỗn xược đừng trách lão nạp không khoan nhượng.” Vô Ly lạnh lùng nói.
Phùng Hành Di bức xúc nói: “Cho dù ta là yêu vật, mạng người lẽ nào không đáng quý hơn việc cho một yêu vật như ta vào chùa? Người ta muốn cứu cũng không phải ai xa lạ với ngươi. Chính là chuyển kiếp của Vô Trần, sư đệ ngươi.”
“Tự mình tạo nghiệt không thể cứu. Ta đã nhiều lần khuyên sư đệ đừng dính dáng với yêu vật như ngươi, nhưng đệ ấy trước vì trả ơn, sau vì mê muội ái tình, đều là tự làm tự chịu, có thể trách được ai?”
“Trả ơn? Ý ngươi là sao?” Phùng Hành Di hoàn toàn không hiểu được lời này.
“Người đắc đạo như sư đệ có thể nhớ rõ chuyện tiền kiếp từng trải. Trong một kiếp của đệ ấy, đệ ấy từng là cái cây non sắp khô héo ở bãi chiến trường vì nhiễm huyết khí ô trọc. Ngươi khi đó là một tiểu hồ ly chưa thành hình người, hằng ngày đem nước tưới cho cây, cái cây của sư đệ nhờ vậy mới sống được. Sư đệ luôn nhớ ơn tái tạo, tâm động chân tình. Lẽ ra có thể sớm ngày giác ngộ, về với Niết Bàn, lại cam nguyện vì ngươi tự phá bỏ thanh quy giới luật, giờ trở thành kẻ không nơi để đi. Tất cả những gì đệ ấy phải chịu đều là do nghiệp chướng sâu nặng, không ai cứu nổi.”
Phùng Hành Di càng nghe càng thấy giận. Ngữ khí của lão trọc già chính là đang phê phán Mặc Không. Hắn chỉ tay về phía Vô Ly, quát:
“Lão trọc già nhà ngươi, ta nể ngươi là sư huynh của y nên đã nhẫn nhịn ngươi hết mức. Ta chỉ xin vài nhánh cỏ để cứu mạng. Người xuất gia không phải nói cứu một mạng người còn hơn xây bảy tháp phù đồ sao? Ngươi thấy chết không cứu, còn tự nhận thanh cao gì? Giờ ta chỉ hỏi một câu, cỏ Thủy Túc ngươi có cho hay không?”
“Nếu ta không nể mặt Vô Trần, ngươi còn mạng đứng đây sao? Cỏ ta sẽ không cho. Ngươi làm càn ở đây cũng vô ích.”
“Ngươi giỏi!”
Phùng Hành Di ngậm cục tức quay đi. Nếu giờ hắn gây náo loạn một trận, cũng chả có lợi ích gì. Tuy rằng có Phật ấn của Mặc Không thủ hộ, nhưng nếu Vô Ly không chạm vào hắn mà đem hắn nhốt lại ở đâu đó, coi như hắn cũng hết cách cứu Mặc Không. Tình trạng của Mặc Không hiện giờ vẫn chưa rõ, hắn phải tranh thủ thời gian hơn là làm mấy chuyện vô bổ.
Lão trọc già không cho cỏ, Phùng Hành Di có tay có chân sẽ tự đi hái trộm. Hắn giả vờ ngoan ngoãn xuống núi, đợi cho các sư trong tự không còn phòng bị thì quay lại bắt vài vị hỏi về cỏ Thủy Túc. Hắn đem đối chiếu những lời khai với nhau, đều nói là cỏ này mọc sau núi, ngay trong hang năm xưa Mặc Không ở.
Phùng Hành Di tìm kiếm con đường ra sau núi mà không đi ngang tự, tránh bị kim thân của Đức Phật tổn thương. Núi Bạch Vân sở dĩ có tên như vậy là bởi vì dáng núi cao chót vót, dễ chạm đến mây, còn vì trên đỉnh quanh năm tuyết phủ, nhìn xa giống hệt như đốm mây trắng kiều diễm. Thế nhưng, đối với một hồ tinh như Phùng Hành Di, núi này thực không phải chốn thú vị đi ngắm cảnh. Bởi vì càng lên cao, linh khí trong thuần của trời đất càng thịnh, xui nên cũng không chấp nhận nổi yêu khí nặng nề trên người hắn. Ngay cả việc hít thở, Phùng Hành Di cũng cảm thấy đau buốt khắp người, không sao trụ nổi.
Mất một ngày một đêm lê lết trong tuyết tìm kiếm, Phùng Hành Di cuối cùng cũng đổ xuống. Hắn cào cào những ngón tay vào mặt tuyết, tự nhủ với bản thân nếu hắn chết ở đây, Mặc Không cũng hết cứu.
“Khi sống, nguyện chung giường, khi chết, nguyện chung mộ, sống chết đều không phân ly.”
Lời này của Mặc Không giờ đây hắn đã sâu sắc hiểu ra. Hắn tuyệt đối không thể chết như vậy. Mặc Không cũng không thể chết. Họ nhất định phải sống cả. Trước khi chung mộ thì chí ít phải chung giường. Mặt sàn trong Cửu Liên Tháp rất lạnh, lạnh như tuyết này vậy, hắn trước giờ đều không quen. Vậy nên ở kiếp này, Mặc Không phải đền bù cho hắn. Muốn làm cũng đường đường chính chính làm trên giường, cho hắn một lần hảo hảo cảm nhận được ấm áp và thống khoái.
Phùng Hành Di gập người lại đứng dậy. Hắn nhặt một nhành cây khô lún vào tuyết, chống lên đi tiếp, sau cùng cũng tìm ra hang của Mặc Không. Vì là hang của người tu hành, ngoại trừ vài vật dụng thô sơ thì không còn gì khác. Trên bức vách có hai câu thơ: “Tốt nhất không gặp nhau, như vậy có thể không yêu nhau. Tốt nhất không yêu nhau, như vậy có thể không xa nhau.” (*)
Phùng Hành Di chợt nhớ lại lần cuối gặp Mặc Không ở kiếp trước, trái tim liền đau quặn. Rõ ràng lúc đó cũng đau thế này, lại không nhận ra nỗi đau kia là vì hắn không muốn mất y, không muốn xa y. Phùng Hành Di tự cho là thông minh cả đời, cũng có lúc khờ dại đến mức không hiểu rõ chính mình. Hắn nghiễm nhiên vào lúc đó lại cho rằng bản thân đã thoát nạn, vui mừng trước cái chết của y. Y nhìn thấy hắn như vậy phải chăng rất xót xa, rất tuyệt vọng? Y đã nghĩ gì về hắn? Liệu có vì thế mà chết tâm với hắn không?
“Gặp thì thế nào? Yêu thì thế nào? Chúng ta sẽ không bao giờ xa nhau nữa.”
Phùng Hành Di nói như lập thệ, nhất quyết cho kiếp này một cơ hội để cứu vãn, nhất quyết không khờ dại như hắn đã từng.
Phùng Hành Di tìm được cỏ Thủy Túc ở trong góc hang. Hắn hái một nắm bỏ vào áo trong, lại hái thêm một nắm cầm ở tay cho chắc ăn, đang định rời hang thì thoáng thấy lão trọc già Vô Ly đang đi tới cùng một đạo sĩ râu bạc. Hắn không muốn giáp chiến với họ nên tìm chỗ trốn, nhìn quanh chỉ thấy có cái tủ gỗ là trốn được.
Vô Ly và lão đạo sĩ vừa vào hang, lão đạo sĩ liền nói: “Năm ấy bần đạo nợ Vô Trần đại sư một ơn cứu mạng, từ đấy mà thường đến cùng y đánh cờ, đàm luận nhân sinh. Giờ cảnh vẫn còn đây, cố nhân lại không gặp nữa.”
“Vô Trần đã chuyển thế, đang tu hành tại núi Đơn Lăng.”
“Phương trượng có từng đến gặp qua?”
“Chưa từng. Duyên của kiếp trước đã tận, duyên kiếp này cũng không cần khơi.”
Lão đạo sĩ nhìn lên hàng chữ trên bức vách, cảm thán: “Trước đây bần đạo chưa từng thấy qua những chữ viết này.”
“Trước khi sư đệ tạ thế đã viết lên.”
“Xem ra chấp niệm trong lòng đại sư về hồ vương đó vẫn rất nặng.”
Vô Ly gật đầu: “Nếu như sư đệ không gặp y, chắc là đến giờ vẫn còn sống, thậm chí sống lâu hơn cả lão nạp. Chỉ vì muốn ngăn cản y lạm sát người vô tội, giảm bớt nghiệp chướng nên đã tiêu hao pháp lực thu phục y, dẫn đến khí suy mà chết. Trước khi chết, sư đệ còn tạo ra Phật ấn kiên cố trên người y, nhìn ngoài mặt có vẻ như phòng hờ y tiếp tục gây hại sinh linh, thực chất là để bảo vệ y trăm năm bình an, không bị ai tổn thương. Lão nạp đến giờ vẫn không hiểu, ái tình đó là thứ xứng đáng để trả giá nhiều đến vậy sao? “
“Bần đạo nghĩ, nếu không xứng đáng thì đại sư sẽ không cố chấp bảo vệ. Đại sư từng nói y và hồ vương có duyên nợ ba đời. Đời thứ nhất, một người là cây, một người vun tưới. Đời thứ hai, một người sát sinh, một người ngăn cản. Đời này không biết sẽ trôi qua thế nào.”
“Năm đó trước khi sư đệ xuống núi đã tự bói cho mình một quẻ, biết là điềm đại hung mà vẫn cứ đi, lại không cho lão nạp đi thay. Nếu như không có lần gặp mặt đó, đã không có khổ ải bây giờ. Sư đệ đến kiếp này vẫn còn tu hành, đều vì muốn thay hồ vương tụng niệm giải bớt nghiệp chướng từng tạo ra. Nếu y lãnh ngộ được, mong là sẽ không sát sinh tạo thêm nghiệp, biến công sức của sư đệ thành bọt nước.”
“Vạn pháp quy tâm, tâm có lòng, sự sẽ thành.” Lão đạo sĩ mỉm cười. “Bần đạo muốn đi thăm cố nhân một chuyến.”
Sau khi Vô Ly và lão đạo sĩ rời đi, Phùng Hành Di bước ra khỏi tủ. Thì ra Mặc Không bị tổn thọ vì hắn, đến kiếp này vẫn tu hành cũng là vì hắn. Nếu không nhờ nghe được những lời đối thoại giữa họ, hắn chắc là sẽ ngây ngốc cả đời không biết gì.
Phùng Hành Di chống cây tiến lên trước mấy bước, đột nhiên phát hiện dưới đất viết hai chữ “chân núi.” Hắn khó hiểu đi gấp xuống chân núi. Dù gì cỏ Thủy Túc đã hái được, hắn mà còn chần chừ ở lại đây chính là tự đào mộ chôn mình.
Tại chân núi, Phùng Hành Di bắt gặp lão đạo sĩ đang đứng chờ ai đó. Hắn ngạc nhiên hỏi: “Ngươi biết ta cũng ở trong hang sao?”
Lão đạo sĩ cười: “Người biết hồ vương ở đó sợ rằng không chỉ có mình bần đạo. Dù sao cũng có chung một nơi đến, bần đạo xin được theo cùng.”
“Ngươi thật sự là bạn của Mặc Không sao?” Hắn bán tín bán nghi hỏi.
Lão đạo sĩ khó hiểu.
“À, tức là chuyển thế của Vô Trần.”
“Có một lần, bần đạo cùng với vài đạo hữu bị yêu tinh phục kích trong rừng, là nhờ Vô Trần đại sư xuất hiện kịp thời mới bảo toàn tính mạng cho bần đạo và những người khác. Chuyện Vô Trần đại sư đang chờ cỏ Thủy Túc cứu mạng, bần đạo đã nghe phương trượng nói lại. Phương trượng không phải tuyệt tình, chỉ muốn thử xem tấm lòng của hồ vương dành cho đại sư nông sâu thế nào. Cứu người là chuyện gấp, chúng ta vẫn nên đi ngay.”
Lão đạo sĩ lấy ra hai đạo bùa, gọi đến hai con hạc trắng: “Hồ vương thương tích không nhẹ, có phải nên tiết kiệm sức lực?”
Phùng Hành Di đánh liều tin lão đạo sĩ. Dù gì hắn cũng không đi nổi nữa. Hắn ngồi lên thân hạc, cùng lão đạo sĩ bay về núi Đơn Lăng.
(*) Trích Tương Tư Thập Giới Thi của Thương Ương Gia Thố
“Ta không phải đến sinh sự. Ta chỉ muốn có được cỏ Thủy Túc để cứu mạng. Thỉnh phương trượng cho toại nguyện.”
“Bất luận vì lý do gì, một yêu vật như ngươi sao lại dám xâm phạm vào chốn trang nghiêm này? Mau rời khỏi, nếu còn hỗn xược đừng trách lão nạp không khoan nhượng.” Vô Ly lạnh lùng nói.
Phùng Hành Di bức xúc nói: “Cho dù ta là yêu vật, mạng người lẽ nào không đáng quý hơn việc cho một yêu vật như ta vào chùa? Người ta muốn cứu cũng không phải ai xa lạ với ngươi. Chính là chuyển kiếp của Vô Trần, sư đệ ngươi.”
“Tự mình tạo nghiệt không thể cứu. Ta đã nhiều lần khuyên sư đệ đừng dính dáng với yêu vật như ngươi, nhưng đệ ấy trước vì trả ơn, sau vì mê muội ái tình, đều là tự làm tự chịu, có thể trách được ai?”
“Trả ơn? Ý ngươi là sao?” Phùng Hành Di hoàn toàn không hiểu được lời này.
“Người đắc đạo như sư đệ có thể nhớ rõ chuyện tiền kiếp từng trải. Trong một kiếp của đệ ấy, đệ ấy từng là cái cây non sắp khô héo ở bãi chiến trường vì nhiễm huyết khí ô trọc. Ngươi khi đó là một tiểu hồ ly chưa thành hình người, hằng ngày đem nước tưới cho cây, cái cây của sư đệ nhờ vậy mới sống được. Sư đệ luôn nhớ ơn tái tạo, tâm động chân tình. Lẽ ra có thể sớm ngày giác ngộ, về với Niết Bàn, lại cam nguyện vì ngươi tự phá bỏ thanh quy giới luật, giờ trở thành kẻ không nơi để đi. Tất cả những gì đệ ấy phải chịu đều là do nghiệp chướng sâu nặng, không ai cứu nổi.”
Phùng Hành Di càng nghe càng thấy giận. Ngữ khí của lão trọc già chính là đang phê phán Mặc Không. Hắn chỉ tay về phía Vô Ly, quát:
“Lão trọc già nhà ngươi, ta nể ngươi là sư huynh của y nên đã nhẫn nhịn ngươi hết mức. Ta chỉ xin vài nhánh cỏ để cứu mạng. Người xuất gia không phải nói cứu một mạng người còn hơn xây bảy tháp phù đồ sao? Ngươi thấy chết không cứu, còn tự nhận thanh cao gì? Giờ ta chỉ hỏi một câu, cỏ Thủy Túc ngươi có cho hay không?”
“Nếu ta không nể mặt Vô Trần, ngươi còn mạng đứng đây sao? Cỏ ta sẽ không cho. Ngươi làm càn ở đây cũng vô ích.”
“Ngươi giỏi!”
Phùng Hành Di ngậm cục tức quay đi. Nếu giờ hắn gây náo loạn một trận, cũng chả có lợi ích gì. Tuy rằng có Phật ấn của Mặc Không thủ hộ, nhưng nếu Vô Ly không chạm vào hắn mà đem hắn nhốt lại ở đâu đó, coi như hắn cũng hết cách cứu Mặc Không. Tình trạng của Mặc Không hiện giờ vẫn chưa rõ, hắn phải tranh thủ thời gian hơn là làm mấy chuyện vô bổ.
Lão trọc già không cho cỏ, Phùng Hành Di có tay có chân sẽ tự đi hái trộm. Hắn giả vờ ngoan ngoãn xuống núi, đợi cho các sư trong tự không còn phòng bị thì quay lại bắt vài vị hỏi về cỏ Thủy Túc. Hắn đem đối chiếu những lời khai với nhau, đều nói là cỏ này mọc sau núi, ngay trong hang năm xưa Mặc Không ở.
Phùng Hành Di tìm kiếm con đường ra sau núi mà không đi ngang tự, tránh bị kim thân của Đức Phật tổn thương. Núi Bạch Vân sở dĩ có tên như vậy là bởi vì dáng núi cao chót vót, dễ chạm đến mây, còn vì trên đỉnh quanh năm tuyết phủ, nhìn xa giống hệt như đốm mây trắng kiều diễm. Thế nhưng, đối với một hồ tinh như Phùng Hành Di, núi này thực không phải chốn thú vị đi ngắm cảnh. Bởi vì càng lên cao, linh khí trong thuần của trời đất càng thịnh, xui nên cũng không chấp nhận nổi yêu khí nặng nề trên người hắn. Ngay cả việc hít thở, Phùng Hành Di cũng cảm thấy đau buốt khắp người, không sao trụ nổi.
Mất một ngày một đêm lê lết trong tuyết tìm kiếm, Phùng Hành Di cuối cùng cũng đổ xuống. Hắn cào cào những ngón tay vào mặt tuyết, tự nhủ với bản thân nếu hắn chết ở đây, Mặc Không cũng hết cứu.
“Khi sống, nguyện chung giường, khi chết, nguyện chung mộ, sống chết đều không phân ly.”
Lời này của Mặc Không giờ đây hắn đã sâu sắc hiểu ra. Hắn tuyệt đối không thể chết như vậy. Mặc Không cũng không thể chết. Họ nhất định phải sống cả. Trước khi chung mộ thì chí ít phải chung giường. Mặt sàn trong Cửu Liên Tháp rất lạnh, lạnh như tuyết này vậy, hắn trước giờ đều không quen. Vậy nên ở kiếp này, Mặc Không phải đền bù cho hắn. Muốn làm cũng đường đường chính chính làm trên giường, cho hắn một lần hảo hảo cảm nhận được ấm áp và thống khoái.
Phùng Hành Di gập người lại đứng dậy. Hắn nhặt một nhành cây khô lún vào tuyết, chống lên đi tiếp, sau cùng cũng tìm ra hang của Mặc Không. Vì là hang của người tu hành, ngoại trừ vài vật dụng thô sơ thì không còn gì khác. Trên bức vách có hai câu thơ: “Tốt nhất không gặp nhau, như vậy có thể không yêu nhau. Tốt nhất không yêu nhau, như vậy có thể không xa nhau.” (*)
Phùng Hành Di chợt nhớ lại lần cuối gặp Mặc Không ở kiếp trước, trái tim liền đau quặn. Rõ ràng lúc đó cũng đau thế này, lại không nhận ra nỗi đau kia là vì hắn không muốn mất y, không muốn xa y. Phùng Hành Di tự cho là thông minh cả đời, cũng có lúc khờ dại đến mức không hiểu rõ chính mình. Hắn nghiễm nhiên vào lúc đó lại cho rằng bản thân đã thoát nạn, vui mừng trước cái chết của y. Y nhìn thấy hắn như vậy phải chăng rất xót xa, rất tuyệt vọng? Y đã nghĩ gì về hắn? Liệu có vì thế mà chết tâm với hắn không?
“Gặp thì thế nào? Yêu thì thế nào? Chúng ta sẽ không bao giờ xa nhau nữa.”
Phùng Hành Di nói như lập thệ, nhất quyết cho kiếp này một cơ hội để cứu vãn, nhất quyết không khờ dại như hắn đã từng.
Phùng Hành Di tìm được cỏ Thủy Túc ở trong góc hang. Hắn hái một nắm bỏ vào áo trong, lại hái thêm một nắm cầm ở tay cho chắc ăn, đang định rời hang thì thoáng thấy lão trọc già Vô Ly đang đi tới cùng một đạo sĩ râu bạc. Hắn không muốn giáp chiến với họ nên tìm chỗ trốn, nhìn quanh chỉ thấy có cái tủ gỗ là trốn được.
Vô Ly và lão đạo sĩ vừa vào hang, lão đạo sĩ liền nói: “Năm ấy bần đạo nợ Vô Trần đại sư một ơn cứu mạng, từ đấy mà thường đến cùng y đánh cờ, đàm luận nhân sinh. Giờ cảnh vẫn còn đây, cố nhân lại không gặp nữa.”
“Vô Trần đã chuyển thế, đang tu hành tại núi Đơn Lăng.”
“Phương trượng có từng đến gặp qua?”
“Chưa từng. Duyên của kiếp trước đã tận, duyên kiếp này cũng không cần khơi.”
Lão đạo sĩ nhìn lên hàng chữ trên bức vách, cảm thán: “Trước đây bần đạo chưa từng thấy qua những chữ viết này.”
“Trước khi sư đệ tạ thế đã viết lên.”
“Xem ra chấp niệm trong lòng đại sư về hồ vương đó vẫn rất nặng.”
Vô Ly gật đầu: “Nếu như sư đệ không gặp y, chắc là đến giờ vẫn còn sống, thậm chí sống lâu hơn cả lão nạp. Chỉ vì muốn ngăn cản y lạm sát người vô tội, giảm bớt nghiệp chướng nên đã tiêu hao pháp lực thu phục y, dẫn đến khí suy mà chết. Trước khi chết, sư đệ còn tạo ra Phật ấn kiên cố trên người y, nhìn ngoài mặt có vẻ như phòng hờ y tiếp tục gây hại sinh linh, thực chất là để bảo vệ y trăm năm bình an, không bị ai tổn thương. Lão nạp đến giờ vẫn không hiểu, ái tình đó là thứ xứng đáng để trả giá nhiều đến vậy sao? “
“Bần đạo nghĩ, nếu không xứng đáng thì đại sư sẽ không cố chấp bảo vệ. Đại sư từng nói y và hồ vương có duyên nợ ba đời. Đời thứ nhất, một người là cây, một người vun tưới. Đời thứ hai, một người sát sinh, một người ngăn cản. Đời này không biết sẽ trôi qua thế nào.”
“Năm đó trước khi sư đệ xuống núi đã tự bói cho mình một quẻ, biết là điềm đại hung mà vẫn cứ đi, lại không cho lão nạp đi thay. Nếu như không có lần gặp mặt đó, đã không có khổ ải bây giờ. Sư đệ đến kiếp này vẫn còn tu hành, đều vì muốn thay hồ vương tụng niệm giải bớt nghiệp chướng từng tạo ra. Nếu y lãnh ngộ được, mong là sẽ không sát sinh tạo thêm nghiệp, biến công sức của sư đệ thành bọt nước.”
“Vạn pháp quy tâm, tâm có lòng, sự sẽ thành.” Lão đạo sĩ mỉm cười. “Bần đạo muốn đi thăm cố nhân một chuyến.”
Sau khi Vô Ly và lão đạo sĩ rời đi, Phùng Hành Di bước ra khỏi tủ. Thì ra Mặc Không bị tổn thọ vì hắn, đến kiếp này vẫn tu hành cũng là vì hắn. Nếu không nhờ nghe được những lời đối thoại giữa họ, hắn chắc là sẽ ngây ngốc cả đời không biết gì.
Phùng Hành Di chống cây tiến lên trước mấy bước, đột nhiên phát hiện dưới đất viết hai chữ “chân núi.” Hắn khó hiểu đi gấp xuống chân núi. Dù gì cỏ Thủy Túc đã hái được, hắn mà còn chần chừ ở lại đây chính là tự đào mộ chôn mình.
Tại chân núi, Phùng Hành Di bắt gặp lão đạo sĩ đang đứng chờ ai đó. Hắn ngạc nhiên hỏi: “Ngươi biết ta cũng ở trong hang sao?”
Lão đạo sĩ cười: “Người biết hồ vương ở đó sợ rằng không chỉ có mình bần đạo. Dù sao cũng có chung một nơi đến, bần đạo xin được theo cùng.”
“Ngươi thật sự là bạn của Mặc Không sao?” Hắn bán tín bán nghi hỏi.
Lão đạo sĩ khó hiểu.
“À, tức là chuyển thế của Vô Trần.”
“Có một lần, bần đạo cùng với vài đạo hữu bị yêu tinh phục kích trong rừng, là nhờ Vô Trần đại sư xuất hiện kịp thời mới bảo toàn tính mạng cho bần đạo và những người khác. Chuyện Vô Trần đại sư đang chờ cỏ Thủy Túc cứu mạng, bần đạo đã nghe phương trượng nói lại. Phương trượng không phải tuyệt tình, chỉ muốn thử xem tấm lòng của hồ vương dành cho đại sư nông sâu thế nào. Cứu người là chuyện gấp, chúng ta vẫn nên đi ngay.”
Lão đạo sĩ lấy ra hai đạo bùa, gọi đến hai con hạc trắng: “Hồ vương thương tích không nhẹ, có phải nên tiết kiệm sức lực?”
Phùng Hành Di đánh liều tin lão đạo sĩ. Dù gì hắn cũng không đi nổi nữa. Hắn ngồi lên thân hạc, cùng lão đạo sĩ bay về núi Đơn Lăng.
(*) Trích Tương Tư Thập Giới Thi của Thương Ương Gia Thố